Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013
Thứ Hai, 4 tháng 3, 2013
Nguyễn Phú Trọng&Mikhail Sergeyevich Gorbachyov
Nguyễn Phú Trọng
|
|
Nhiệm kỳ
|
19 tháng 1, 2011 – nay
2 năm, 43 ngày |
Tiền nhiệm
|
Nông Đức Mạnh
|
Kế nhiệm
|
đương nhiệm
|
Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
|
|
Nhiệm kỳ
|
26 tháng 6, 2006 – 23 tháng 7, 2011
6 năm, 250 ngày |
Tiền nhiệm
|
Nguyễn Văn An
|
Kế nhiệm
|
Nguyễn Sinh Hùng
|
Bí thư Thành ủy Hà Nội
|
|
Nhiệm kỳ
|
1 năm 2000 – 26 tháng 6, 2006
|
Kế nhiệm
|
Phạm Quang Nghị
|
Bí thư Quân ủy Trung ương
|
|
Nhiệm kỳ
|
19 tháng 1, 2011 – nay
2 năm, 43 ngày |
Tiền nhiệm
|
Nông Đức Mạnh
|
Kế nhiệm
|
đương nhiệm
|
Đảng
|
Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Sinh
|
14 tháng 4, 1944 (68 tuổi)
xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội |
Học trường
|
Đại học Tổng hợp Hà Nội, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
|
Dân tộc
|
Kinh
|
Nguyễn Phú Trọng (sinh năm 1944) là một chính khách
Việt Nam. Trước khi được bầu làm Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 19
tháng 1 năm 2011,
ông từng giữ chức Chủ tịch Quốc hội Việt Nam từ ngày 26
tháng 6 năm 2006 đến
ngày 23 tháng 7 năm 2011. Ông cũng là một Giáo sư, Tiến sĩ Chính trị học (chuyên
ngành Xây dựng Đảng), Cử nhân Văn - Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Ông Nguyễn Phú Trọng còn giữ chức vụ Bí thư Quân ủy Trung ương và Trưởng Ban chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 14 tháng 4 năm 1944 tại xã Đông Hội,
huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.
Từ năm 1957 đến
năm 1963,
ông học trường cấp II rồi cấp III Nguyễn Gia Thiều đóng tại huyện Gia Lâm nay
là quận Long
Biên Hà Nội.
Năm 1963, ông học Khoa Văn,
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (từ
năm 1965 đến năm 1967, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán lên huyện Đại Từ,
tỉnh Bắc Thái - nay là Thái Nguyên).
Ông tốt nghiệp bằng Cử nhân Văn chương.
Năm 1967, ông trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông công tác tại
tạp chí Học tập (tiền thân của tạp chí Cộng sản),
một trong ba cơ quan tuyên truyền quan trọng và chuyên chính nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam (cùng với báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân).
Năm 1973, ông được cử đi học
lớp nghiên cứu sinh về kinh tế chính trị tại Trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
Năm 1981, ông được cử sang Liên Xô làm
thực tập sinh, học tập và bảo vệ luận án tiến sĩ tại Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Liên Xô (thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô).
Tháng 8 năm 1983, ông về nước, tiếp
tục công tác ở Ban Xây dựng Đảng của tạp chí Cộng sản. Được đề bạt
làm Phó trưởng ban (tháng 10năm 1983), Trưởng ban (tháng 9 năm 1987), Uỷ viên Ban biên
tập (tháng 3 năm 1989), Phó tổng biên tập (tháng 5 năm 1990) rồi Tổng biên tập
tạp chí Cộng sản (tháng 8 năm 1991).
Năm 1992, ông được phong học
hàm Phó giáo sư và 10 năm sau (2002) ông được phong học
hàm Giáo sư.
Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 1 năm 1994, tại Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, họp tại Hà Nội, ông
cùng với 19 người khác được bầu bổ sung vào Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII.
Tháng 8 năm 1996, ông làm Phó bí thư
Thành uỷ Hà Nội, kiêm Trưởng Ban Đại học[1],
phụ trách công tác tuyên giáo của Thành ủy.
Tháng 2 năm 1998, ông phụ trách công
tác tư tưởng - văn hóa và khoa giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Lý
luận Trung ương. Hiệu phó trường KHXH và Nhân Văn.
Từ tháng 8 năm 1999 cho tới hết
nhiệm kì của Đại hội VIII, ông tham gia
Thường trực Bộ Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII; trực tiếp chỉ đạo việc
biên soạn Văn kiện Đại hội IX của Đảng.
Tháng 1 năm 2000, ông làm Bí thư Thành
uỷ Hà Nội. Tháng 11 năm 2001, ông kiêm nhiệm Chủ
tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác lý luận của Đảng. Từ đầu
năm 2003,
ông trực tiếp chỉ đạo công tác tổng kết 20 năm đổi mới,
chuẩn bị và biên soạn văn kiện Đại hội X của Đảng.
Ngày 26 tháng 6 năm 2006, ông đảm nhận chức vụ
Chủ tịch Quốc hội thay ông Nguyễn Văn An, xin từ nhiệm. Hai ngày sau, Bộ Chính trị đã
chỉ định ông Phạm Quang Nghị, người vừa được Quốc hội miễn
nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin, làm Bí thư Thành ủy Hà Nội kế nhiệm.
Tại kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa XII[2],
ông tái đắc cử chức Chủ tịch Quốc hội.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI,
ông được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ
ngày 19 tháng 1 năm2011.
Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Liên xô
|
|
Nhiệm
kỳ
|
11 tháng 3 năm 1985 – 25 tháng 12năm 1991
|
Tiền nhiệm
|
Konstantin Ustinovich Chernenko
Tổng bí thư Đảng CS Liên Xô |
Kế
nhiệm
|
Vladimir Antonovich Ivashko
Tổng bí thư Đảng CS Liên Xô |
Đảng
|
Đảng Cộng sản Liên xô
|
Sinh
|
2 tháng 3, 1931 (82 tuổi)
Stavropol, Liên bang Xô viết |
Phu nhân
|
Raisa Maksimovna Gorbachyova
|
Mikhail Sergeyevich Gorbachyov (tiếng Nga: Михаи́л Серге́евич Горбачёв, Mihail Sergeevič Gorbačëv; IPA: [mʲɪxʌˈil
sʲɪrˈgʲejɪvʲɪʨ gərbʌˈʨof], thường được Anh hoá thành Gorbachev; sinh ngày 2 tháng 3, 1931) từng là lãnh đạo Liên bang Xô
viết từ năm 1985 tới
1991. Những nỗ lực thực hiện cải cách của ông giúp chấm dứt Chiến tranh Lạnh, nhưng cũng góp phần kết thúc quyền uy tối
cao của Đảng Cộng sản Liên xô (CPSU) và giải thể Liên bang Xô viết.
Ông đã được trao Giải Nobel Hoà bình năm 1990.
Tuổi
trẻ và nghề nghiệp chính trị
Mikhail Sergeyevich Gorbachyov sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng
Privolnoye gần Stavropol. Là con trai của
một công nhân cơ khí nông nghiệp Nga Alexi Gorbachov và Maria Pantelyeva, ông
trải qua thời thơ ấu khó khăn trong thời gian cầm quyền của lãnh tụ Iosif Vissarionovich Stalin; ông bà
Gorbachyov bị trục xuất vì là những nông dân giàu có, thời ấy bị gọi là kulaks. Dù lý lịch không hoàn hảo, ông
luôn tỏ ra xuất sắc trong lao động và học tập. Ông được coi là học sinh thông
minh nhất lớp, đặc biệt trong môn lịch sử và toán học.
Sau khi ra trường, ông cùng lao động và giúp gia đình có được sản lượng thu
hoạch cao kỷ lục bên trong hợp tác xã. Nhờ thành tích này, ông được trao Huy chương lao động Cờ Đỏ khi mới 17 tuổi. Khá hiếm người ở độ
tuổi ấy từng được vinh dự này. Chắc chắn rằng giải thưởng cùng với trí thông
minh của ông đã giúp ông được vào học ngành luật tại Đại học Quốc gia Moskva. Cũng cần nhớ rằng
để vào được một đại học danh tiếng như vậy, cần phải có khá nhiều ước vọng
chính trị cũng như khả năng học tập thực sự. Trong thời gian sống tạiMoskva, ông gặp người vợ
tương lai, Raisa. Họ làm đám cưới
tháng 9 năm 1953 và trở về quê hương của Gorbachyov ở Stavropol, phía nam nước
Nga, sau khi ông tốt nghiệp năm 1955.
Gorbachyov gia nhập Đảng Cộng sản Liên xô năm 1952 khi 21 tuổi. Năm 1966, ở
độ tuổi 35, ông được Học viện nông nghiệp cấp bằng nông học-kinh tế học. Ông
bắt đầu thăng tiến nhanh chóng trên con đường sự nghiệp, năm 1970 ông được chỉ
định vào chức Thư ký thứ nhất phụ trách nông nghiệp và năm sau trở thành thành
viên Ủy ban trung ương. Năm 1972, ông dẫn đầu một đoàn đại biểu Xô viết tới Bỉ và hai năm sau đó, năm 1974 trở thành
đại biểu trong Xô viết tối cao, và Chủ tịch Ủy ban thường
trực phụ trách các vấn đề thanh niên.
Năm 1979, Gorbachyov được vào Bộ chính trị.
Ở đó, ông được Yuri Vladimirovich Andropov, lãnh đạo KGB, một người cũng xuất
thân từ vùng Stavropol đỡ đầu và tiếp tục thăng tiến trong khoảng thời gian
ngắn Andropov nắm quyền lãnh đạo đảng trước khi Andropov mất năm 1984. Chịu
trách nhiệm quản lý nhân sự, cùng với Andropov, ông đã thay đổi 20% quan chức
cao cấp, các bộ trưởng trong chính phủ cũng như các thống đốc địa phương bằng
những người trẻ tuổi. Trong thời gian này Grigory Vasilyevich Romanov, Nikolai Ivanovich Ryzkov và Yegor Kuzmich Ligachev bắt đầu được cất nhắc. Ryzhkov và
Ligachev là những đồng minh thân cận của Gorbachyov, Ryzhkov về vấn đề kinh tế,
Ligachev phụ trách nhân sự. Ông cũng có quan hệ thân thiết với Konstantin Ustinovich Chernenko, người
thay thế Andropov khi ông này còn giữ chức Thư ký thứ hai[1].
Các chức vụ mới bên trong Đảng Cộng sản Liên xô khiến ông có nhiều cơ hội
đi ra nước ngoài và nó đã gây ảnh hưởng to lớn tới những quan điểm chính trị,
xã hội của ông sau này khi lãnh đạo đất nước. Năm 1975, ông dẫn đầu một phái
đoàn tới Tây Đức,
và vào năm 1983 dẫn đầu một đoàn đại biểu Xô viết tới Canada gặp Thủ tướng Pierre Trudeau và các thành viên Hạ viện cũng
như Thượng viện Canada. Năm
1984, ông tới Anh, tại đây ông đã gặp Thủ tướng Margaret
Thatcher.
]Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô
Ngay khi Chernenko qua đời, Mikhail Sergeyevich Gorbachyov, khi ấy 54 tuổi,
được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 11 tháng 3 năm 1985. Ông trở thành lãnh
tụ đầu tiên của đảng sinh ra sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917.
Trên thực tế là người nắm quyền lãnh đạo Liên bang Xô viết, ông đã tìm cách
cải cách tình trạng trì trệ của đảng Cộng sản cũng như của nền kinh tế bằng
cách đưa ra các mô hình glasnost ( "mở cửa" ), perestroika ( "cải tổ" ) và uskoreniye ( "tăng tốc", phát triển
kinh tế ), những chương trình này bắt đầu được đưa ra tại Đại hội lần thứ 27
Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2 năm 1986.
Cải
cách trong nước
Trong nước, Gorbachyov áp dụng các cải cách kinh tế mà ông hy vọng qua đó
cải thiện đời sống nhân dân, năng suất sản xuất của công nhân qua chương trình perestroika của ông. Tuy nhiên, nhiều biện pháp
cải cách của ông bị những thành viên lãnh đạo cộng sản bên trong chính phủ Xô
viết vào thời điểm ấy coi là cực đoan.
Năm 1985, Gorbachyov thông báo rằng kinh tế Xô viết đang bị sa lầy và rằng việc
tái tổ chức là cần thiết. Ban đầu, các cải cách của ông được gọi là "uskoreniye" (tăng tốc) nhưng sau này
thuật ngữ "perestroika" (cải tổ) trở nên phổ biến hơn.
Gorbachyov không phải được tự do hành động. Dù kỷ nguyên Brezhnev thường
được coi là một thời kỳ đình trệ kinh tế, một số thử nghiệm kinh tế (đặc biệt
trong việc tổ chức các doanh nghiệp, và liên doanh với phương Tây) cũng đã diễn
ra. Một số ý tưởng của những nhà cải cách bị các giám đốc doanh nghiệp có tư
tưởng kỹ trị, không đồng tình, họ thường sử dụng các cơ sở của Liên đoàn Cộng
sản trẻ làm nơi bàn bạc. Cái gọi là "Thế hệ Komsomol" là những người
dễ tiếp thu tư tưởng của Gorbachyov nhất, họ cũng là những người hình thành nên
thế hệ nhà kinh doanh, nhà chính trị thời hậu Xô viết, đặc biệt tại Các nước vùng Baltic.
Cải cách đầu tiên được đưa ra thời Gorbachyov là cải cách rượu năm 1985, có
mục đích ngăn chặn chứng nghiện rượu đang ngày càng phát triển ở Liên bang Xô
viết. Giá các loại vodka,rượu và bia tăng lên, và
việc mua bán chúng cũng bị ngăn cấm. Những ai uống rượu tại nơi làm việc cũng
như nơi công cộng sẽ bị truy tố. Uống rượu bia trên tàu tốc hành cũng bị cấm.
Nhiều nhà máy rượu vang nổi tiếng bị đóng cửa. Những cảnh uống
rượu bị cắt khỏi các bộ phim. Cuộc cải cách không mang lại một
hiệu quả rõ rệt nào đối với chứng nghiện rượu trong nước, nhưng về mặt kinh tế,
nó là một cú đánh mạnh vào ngân khố quốc gia (theo Alexander Nikolaevich Yakovlev con số thiệt hại khoảng 100 tỷ rúp) vì
việc sản xuất rượu đã được chuyển sang cho nền kinh tế chợ đen. Cải cách rượu là một trong những hành động đầu tiên
kéo theo một chuỗi sự kiện chỉ chấm dứt cùng với sự chấm dứt của Liên bang Xô
viết và sự khủng hoảng kinh tế sâu sắc bên trong CIS mới
được thành lập sáu năm sau đó[cần dẫn nguồn].
Luật Hợp tác xã được ban hành tháng 5 năm 1988 có lẽ
là cải cách cấp tiến nhất trong số những cải cách kinh tế thời đầu kỷ nguyên
Gorbachyov. Lần đầu tiên kể từ thời Chính sách kinh tế mới của Vladimir Ilyich Lenin, luật cho phép người
dân sở hữu các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực dịch vụ, sản xuất và thương
mại với nước ngoài. Ban đầu luật áp dụng mức thuế cao và hạn chế doanh nghiệp
sử dụng nhân công, nhưng sau này nó đã được sửa đổi nhằm tránh cản trở hoạt
động của lĩnh vực tư nhân. Nhờ điều luật này, các nhà hàng, cửa hiệu, các nhà
máy sản xuất đã phát triển trở thành một thành phần trong xã hội Xô viết. Cần
lưu ý rằng một số nước cộng hòa thuộc liên bang không cần quan tâm tới các quy
định hạn chế của luật. Ví dụ, tạiEstonia, các hợp tác xã được phép cung cấp hàng hóa cho người
nước ngoài và được phép quan hệ làm ăn với các công ty nước ngoài.
Các tổ chức công nghiệp rộng lớn trên "Toàn Liên bang" bắt đầu
được tái cơ cấu. Ví dụ, Aeroflot được chia thành một số doanh nghiệp
độc lập, một số doanh nghiệp đó trở thành hạt nhân hình thành các công ty hàng
không tương lai. Các doanh nghiệp tự chủ mới xuất hiện đó được khuyến khích tìm
kiếm đầu tư nước ngoài để tái cơ cấu.
Việc Gorbachyov đưa ra chương trình mở cửa khiến người dân có nhiều quyền tự do
hơn, như tự do ngôn luận. Đây là một thay đổi căn bản, bởi vị việc giám sát
ngôn luận và đàn áp những kẻ chỉ trích chính phủ trước kia là một chính sách
căn bản của hệ thống Xô viết. Báo chí ít bị kiểm soát hơn, và hàng ngàn tù nhân
chính trị cũng như những nhân vật bất đồng được trả tự do. Mục đích của
Gorbachyov khi thực hiện chương trình mở
cửa là muốn gây áp lực tới
những thành viên bảo thủ bên trong Đảng Cộng sản Liên xô, những người phản đối
các chính sách tái cơ cấu kinh tế của ông, và ông cũng hy vọng rằng thông qua
những biện pháp tự do hoá, các cuộc tranh luận, người dân Xô viết sẽ ủng hộ các
sáng kiến cải cách của ông.
Tháng 1 năm 1987, Gorbachyov kêu gọi dân chủ hoá: đưa ra các yếu tố dân chủ
như các cuộc bầu cử nhiều ứng cử viên bên trong hệ thống chính trị Xô viết.
Tháng 6 năm 1988, tại Hội nghị lần thứ hai bảy của đảng, Gorbachyov đưa ra các
cải cách căn bản nhằm giảm sự kiểm soát của đảng đối với các cơ quan chính phủ.
Tháng 12 năm 1988, Xô viết tối cao đồng ý thành lập Đại hội các
đại biểu do nhân dân ủy quyền, với những thay đổi hiến pháp để biến
tổ chức này trở thành một cơ quan lập pháp. Các cuộc bầu cử Đại hội được tổ
chức trên toàn Liên bang Xô viết trong tháng 3 và tháng 4 năm 1989. Ngày 15 tháng 3 năm 1990, Gorbachyov được bầu
làm Tổng thống hành pháp đầu tiên của Liên bang Xô
viết.
Truyền
bá "Tư tưởng mới"
Trên trường quốc tế, Gorbachyov tìm cách cải thiện các quan hệ và thương
mại với phương Tây. Ông thiết lập những mối quan hệ thân thiết với nhiều nhà
lãnh đạo phương Tây, như Thủ tướng Đức Helmut Kohl, Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan và Thủ tướng Anh Margaret
Thatcher - người đã
đưa ra câu nói nổi tiếng: "Tôi thích ông Gorbachyov - chúng tôi có thể làm
việc với nhau."[2]
Ngày 11 tháng 10 năm 1986, Gorbachyov và Reagan
gặp gỡ tại Reykjavík, Iceland đàm phán về việc giảm trừ vũ khí hạt nhân tầm
trung ở Châu Âu.
Trước sự ngạc nhiên khôn xiết của phái đoàn hai bên, hai người đã đồng ý trên
nguyên tắc việc dỡ bỏ các hệ thống vũ khí hạt nhân tầm trung khỏi Châu Âu và
cân bằng các giới hạn toàn cầu ở mức 100 đầu đạn vũ khí hạt nhân tầm trung.
Thỏa thuận này được cụ thể hóa bằng việc ký kết Hiệp ước các
lực lượng hạt nhân tầm trung (INF)
năm 1987.
Tháng 2 năm 1988, Gorbachyov thông báo việc rút các lực lượng Xô viết ra
khỏi Afghanistan.
Việc rút quân hoàn thành năm sau đó, dù cuộc nội chiến vẫn tiếp diễn khi quân Mujahedin lật đổ chính quyền Najibullah thân Xô viết. Ước tính 15.000 lính Xô
viết đã thiệt mạng trong khoảng thời gian từ 1979 tới 1989 trong cuộc xung đột
này. (Xem Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan)
Cũng trong năm 1988, Gorbachyov thông báo rằng Liên bang Xô viết sẽ từ bỏ Học thuyết Brezhnev, và
cho phép các quốc gia khối Đông Âu tự quyết các vấn đề bên trong của
mình. Được người phát ngôn Bộ Ngoại giao chính quyền Gorbachyov, Gennadi Gerasimov, gọi đùa
là "Học thuyết Sinatra",
chính sách không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước thuộc khối Warszawa cho thấy những cải cách trọng yếu nhất
trong chính sách đối ngoại của Gorbachyov. Việc Moskva từ bỏ Học thuyết
Brezhnev dẫn tới một làn sóng cách mạng tại Đông Âu trong suốt năm 1989, dẫn
tới sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Trừ Romania, các cuộc cách
mạng chống lại các chính quyền thân Xô viết đều diễn ra trong hòa bình. Việc Xô
viết nới lỏng kiểm soát Đông Âu đã hoàn toàn chấm dứt Chiến tranh Lạnh, và vì thế, Gorbachyov được trao Giải Nobel Hòa bình ngày 15 tháng 10, 1990.
Đảo
chính và sụp đổ
Trong khi những sáng kiến chính trị của Gorbachyov mang lại hiệu quả tốt
cho tự do và dân chủ tại Liên bang Xô viết và Đông Âu, thì
chính sách kinh tế của chính phủ này lại dần đưa đất nước tới bờ vực thảm hoạ.
Tới cuối thập niên 1980, tình trạng khan hiếm các loại thực phẩm chủ
yếu (thịt, đường) ở mức nghiêm trọng dẫn tới việc tái lập hệ thống phân
phối thời chiến tranh sử dụng tem phiếu hạn chế mỗi người dân chỉ được tiêu thụ
sản phẩm ở một mức nào đó mỗi tháng. So với năm 1985, thâm hụt ngân sách nhà
nước tăng từ 0 lên 109 tỉ rúp; dự trữ vàng giảm từ 2.000 xuống 200 tấn; và nợ
nước ngoài tăng từ 0 tới 120 tỷ Đô la.
Hơn nữa, quá trình dân chủ hóa Liên bang Xô viết và Đông Âu đã làm xói mòn
nghiêm trọng quyền lực của Đảng Cộng sản Liên xô và chính Gorbachyov. Việc
Gorbachyov nới lỏng hệ thốngkiểm duyệt và những nỗ lực của ông nhằm mở cửa
chính trị hơn nữa đã mang lại những hiệu ứng khó lường như sự phục hồi chủ nghĩa quốc gia từ lâu từng bị đàn áp và tình cảm
chống Nga bên trong các nước Cộng
hoà. Những lời kêu gọi giành lấy quy chế độc lập rộng lớn hơn nữa
khỏi Moskva ngày càng tăng, đặc biệt tại Các nước cộng hòa vùng Baltic gồm Estonia, Litva vàLatvia, những nước đã bị Stalin sáp
nhập vào Liên bang Xô viết năm 1940. Những phong trào quốc gia bên trong các
nước Cộng hòa như Gruzia, Ukraina, Armenia và Azerbaijan cũng không ngừng lớn mạnh. Gorbachyov
đã tạo ra một lực lượng sau này chính là kẻ tiêu diệt Liên bang Xô viết.
Ngày 10 tháng 1 năm 1991 Mikhail Sergeyevich Gorbachyov đưa ra tối hậu thư
yêu cầu Hội đồng tối cao Litva tái lập tính pháp lý của hiến pháp Xô viết tại
nước này và thu hồi mọi đạo luật không hợp hiến. Ngày hôm sau Gorbachyov cho
phép quân đội Xô viết tìm cách lật đổ
chính phủ Litva. Hậu quả của sự kiện này, ít nhất 14 thường dân
thiệt mạng và hơn 600 người bị thương trong các ngày 11-13 tháng 1 năm 1991 tại Vilnius, Litva. Phản ứng
mạnh mẽ của phương Tây và các hoạt động của các lực lượng dân chủ Nga khiến
tổng thống và chính phủ Liên bang Xô viết rơi vào tình thế khó xử và tin tức về
những hành động ủng hộ Litva từ các quốc gia dân chủ phương Tây bắt đầu xuất
hiện.
Hành động của Gorbachyov nhằm ngăn cản chủ nghĩa li khai từ các nước cộng
hòa là đưa ra một hiệp ước liên bang mới với mục tiêu thành lập một nhà nước
liên bang tự nguyện và dân chủ hóa thực sự. Hiệp ước liên bang mới được các
nước cộng hòa vùng Trung Á,
những nước cần tới sức mạnh kinh tế và các thị trường của Liên bang cho sự phát
triển thịnh vượng của mình, ủng hộ mạnh mẽ. Tuy nhiên, những nhà cải cách cấp
tiến hơn như Tổng thống Nga Boris Nikolayevich Yeltsin, ngày càng tin
tưởng rằng sự chuyển tiếp nhanh chóng sang một nền kinh tế thị trường là cần thiết và sẵn sàng chấp nhận sự
tan rã của Liên bang Xô viết nếu điều đó là cần thiết để hoàn thành các mục
tiêu của họ.
Trái với sự thờ ơ của những người theo phe cải cách với Hiệp ước liên bang
mới, những người cộng sản cứng rắn, vẫn là một lực lượng mạnh bên trong đảng
cộng sản và quân đội, hoàn toàn phản đối bất kỳ điều gì có thể dẫn tới sự tan
rã đất nước Xô viết. Buổi tối diễn ra lễ ký kết, những người thuộc phe cứng rắn
đã hành động.
Phe cứng rắn bên trong bộ máy lãnh đạo Xô viết tiến hành Vụ đảo chính tháng 8 năm 1991 trong nỗ lực nhằm loại bỏ
Gorbachev khỏi cơ cấu quyền lực và ngăn chặn sự ký kết hiệp ước liên bang.
Trong lúc ấy, Gorbachyov bị quản thúc ba ngày (19 đến 21 tháng 8) trong một ngôi nhà nông thôn ở Krym trước khi được trả tự do và thu hồi
quyền lực. Tuy nhiên, ngay khi trở về, Gorbachyov thấy rằng cả nhà nước liên
bang lẫn các cơ cấu quyền lực Nga đều không còn chú ý tới các mệnh lệnh của ông
và quyền lực thật sự đã rơi vào tay Yeltsin, người đã tiêu diệt cuộc đảo chính.
Hơn nữa, Gorbachyov bị buộc phải hạ bệ một số lớn các thành viên bên trong Bộ
chính trị của mình, và trong nhiều trường hợp, bắt giữ họ. Những cuộc bắt giữ
với lý do phản bội đó gồm cả "Bè lũ tám tên"
lãnh đạo cuộc đảo chính.
Gorbachyov đã có ý định giữ Đảng Cộng sản Liên xô là một đảng thống nhất nhưng
đưa nó đi theo con đường dân chủ xã hội. Những mâu thuẫn vốn có của
cách tiếp cận này - được Lenin ca ngợi, theo hình mẫu xã hội của Thụy Điển và tìm
cách buộc cách nước vùng Baltic phải nằm trong Liên bang bằng sức mạnh vũ lực -
rất khó thực hiện. Nhưng khi Đảng Cộng sản Liên xô bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật sau vụ đảo chính tháng 8, Gorbachyov bị bỏ lại, không còn chút quyền lực
nào đối với các lực lượng vũ trang. Cuối cùng Yeltsin giành được tín nhiệm của
quân đội với những lời hứa về tiền bạc. Sau chót Gorbachyov từ chức ngày 25 tháng 12 năm 1991 khi Liên bang Xô viết chính thức tan
rã.
Hoạt động chính trị sau khi từ chức
Gorbachyov đã thành lập Quỹ Gorbachyov[3] năm 1992. Năm 1993, ông cũng thành lập Chữ thập xanh quốc tế,
cùng với tổ chức này ông là một trong ba nhà tài trợ cho Hiến chương Trái đất. Ông
cũng là một thành viên Câu lạc bộ Rome.
Năm 1995 Gorbachyov được Đại học Durham trao
bằng Tiến sĩ danh dự vì đóng góp của mình cho "sự nghiệp khoan dung chính
trị và chấm dứt xung đột kiểu chiến tranh lạnh"[4].
Năm 1996, Gorbachyov chạy đua chức Tổng thống Nga nhưng chỉ nhận được
khoảng 1% phiếu bầu, có lẽ vì sự thù ghét ông sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ.
Trong khi đi vận động tranh cử, ông đã bị một người đàn ông vô danh đấm vào
mặt.
Năm 1997, Gorbachyov đóng vai trong một đoạn phim quảng cáo Pizza Hut tại Hoa Kỳ để kiếm tiền cho Perestroika Archives.
Ngày 26 tháng 11 năm 2001, Gorbachyov thành lập Đảng dân chủ xã hội Nga—
là một liên minh giữa nhiều đảng dân chủ xã hội ở Nga. Ông đã từ chức lãnh đạo
đảng tháng 5 năm 2004 sau khi có bất đồng với chủ tịch đảng về đường lối chạy
đua trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 2003.
Đầu năm 2004, Gorbachyov đăng ký nhãn hiệu loại rượu vang đỏ mang
nhãn cái bớt của
mình, sau khi một công ty vodka đưa cái bớt này lên nhãn một trong các
loại sản phẩm của mình để lợi dụng sự nổi tiếng của nó. Công ty này hiện không
còn sử dụng mác đó nữa[5].
Tháng 6 năm 2004, Gorbachyov đại diện cho nước Nga tại lễ tang
Ronald Reagan.
Tháng 9 năm 2004, sau khi quân du kích Chechen tấn công nước Nga, Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin đưa ra sáng kiến thay thế các cuộc bầu
cử thống đốc địa phương bằng một hệ thống chỉ định trực tiếp từ tổng thống và
được hội đồng lập pháp địa phương thông qua. Gorbachyov cùng với Yeltsin chỉ
trích hành động của Putin, coi đó là một bước rời xa con đường dân chủ[6].
Năm 2005, Gorbachyov được trao giải thưởng Point Alpha cho vai trò của mình trong việc ủng hộ thống nhất nước Đức. Ông cũng được Đại học Münster trao bằng Tiến sĩ danh dự[7] Hiện nay ông là hội viên Câu lạc bộ Madrid.
Di sản
Ở phương Tây Gorbachyov thường có thiện cảm như là người góp phần chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Ví dụ, tại Đức,
ông được hoan nghênh vì đã đồng ý để sự thống nhất nước Đức diễn ra. Tuy nhiên,
tại Nga ông mang tiếng xấu vì bị coi là kẻ làm sụp đổ đất nước và chịu trách
nhiệm về cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra sau đó. Tuy vậy, những cuộc điều tra
cho thấy phần lớn người Nga hài lòng với những mục tiêu hướng tới các cá nhân
của perestroika, di sản
lập pháp chính của Gorbachyov, và sự tự do mang lại từ quá trình đó.
Chiến tranh tại Afghanistan đã bắt đầu từ cuối thập niên 1970, làm tiêu mòn các nguồn tài nguyên Xô viết.
Cuộc chiến này và nhiều phong trào cách mạng tại các nước vệ tinh của Xô viết
(được trợ cấp nhiều từ các chiến dịch bí mật của phương Tây), ví dụ nổi bật
nhất là Ba Lan và Afghanistan, khiến Liên bang Xô
viết phải chi ra những khoản tiền lớn nhằm giữ ổn định trật tự và giúp các
chính phủ tại đó hoạt động. Một số người cho rằng cuộc chạy đua vũ trang của
phương Tây cũng khiến Liên Xô phải chịu những chi phí lớn tới mức, khi cộng
thêm các chi phí cho Afghanistan, họ không còn khả năng chi trả nữa. Hạ tầng
kinh tế Xô viết rơi vào tình trạng suy sụp đặc biệt nghiêm trọng năm 1985 (khi
Gorbachyov lên nắm quyền) và các sự kiện đó có ảnh hưởng to lớn tới những quyết
định của Gorbachyov về tự do hoá. Cuối cùng, những nỗ lực nhằm "mở
cửa" Liên bang Xô viết là quá chậm chạp, các nước vệ tinh cũng phải chịu
một phần trách nhiệm, dẫn tới sự chấm dứt tồn tại của một giai đoạn đối đầu dài
50 năm giữa Đông và Tây.
Trái lại, những người khác, đặc biệt những người sống ở Liên Xô cũ, tin
rằng Liên bang Xô viết không phải ở tình trạng khủng hoảng kinh tế tồi tệ như
đã từng được tuyên bố và coi Gorbachyov là một chính trị gia kém cỏi, người đã
đưa ra những cải cách sai lầm. Ông bị coi là phải chịu trách nhiệm cho sự tan
rã của Liên Xô, dẫn đến sự hỗn loạn kinh tế và chính trị ở Nga và không gian
hậu Xô viết trong những năm 1990.
Trong những năm cuối đời, Lazar Moiseyevich Kaganovich đã nói trong một cuộc phỏng vấn rằng
thời kỳ cầm quyền của Gorbachyov chính là sự phá hủy trực tiếp đất nước. Năm
2012, tổ chức Liên minh các công dân Nga còn nộp đơn kiện Gorbachyov với tội
danh Phản bội Tổ quốc.[8]
Linh tinh
·
Ở phương Tây,
Gorbachyov thường được gọi là "Gorby", một phần bởi vì mọi người cho
rằng ông kém phần mộc mạc so
với những người tiền nhiệm.
·
Khi viết trong tiếng Anh,
chữ ё trong tên ông thường được thay bằng chữ е thành Gorbachev dù nó thường được đánh vần thành Gorbachyov.
·
Năm 1987,
Gorbachyov thấy rằng các chính sách tự do hoá glasnost và perestroika rất giống với các tư tưởng của Alexander Dubček trong
cuốn "Chủ nghĩa xã hội mang khuôn mặt người". Khi được hỏi cái gì là
điều khác biệt giữa Mùa xuân Praha và
các cuộc cải cách của ông, Gorbachev đã trả lời, "Mười chín năm"[9].
·
Năm 1989, trong một
chuyến viếng thăm chính thức tới Trung Quốc khi Sự kiện Thiên An Môn đang diễn ra, một thời gian ngắn trước
khi thiết quân luật được ban hành ở Bắc Kinh,
Gorbachyov được hỏi về ý kiến của ông về Vạn lý trường thành: "Đó là một công
trình đẹp", ông nói, "nhưng đã có quá nhiều bức tường giữa con người".
Một nhà báo hỏi, "Ông có muốnBức tường Berlin bị
phá bỏ?" Gorbachyov trả lời rất nghiêm túc, "Tại sao không?"
·
Gorbachyov được xếp
hạng #95 trong Danh sách những khuôn mặt có ảnh hưởng nhất trong lịch
sử của Michael H. Hart.
·
Gorbachyov hiện
đang sống tại Bielefeld.
Tình
cảm tôn giáo
Khi ra đời Mikhail Sergeyevich Gorbachyov chịu rửa tội của Nhà thờ Chính Thống giáo Nga nhưng ông là người vô thần. Ông đã kêu gọi đưa ra các
bộ luật tự do tôn giáo tại Liên Xô cũ.
M. S. Gorbachyov cũng thể hiện một số quan điểm phiếm thần khi nói, trong
một cuộc phỏng vấn với tạp chí Resurgence:
“
|
Thiên nhiên là vị thánh của tôi.
|
”
|
Cuối buổi phỏng vấn tháng 11 năm 1996 trên CSPAN's Booknotes, Gorbachyov đã
miêu tả các kế hoạch của mình cho những cuốn sách trong tương lai. Ông đã nói
về Chúa như sau:
“
|
"Tôi không biết Chúa sẽ trao cho
mình bao nhiêu tuổi, [hay] các kế hoạch của Chúa như thế nào.
|
”
|